Welcome to the virtual world community
=» Chào mừng bạn đến với diễn đàn Teen9x!
- Forum Teen9x tự hào là:
+ Tự do spam` kể cả admin online và vắng nhà ^^
+ Nhiều cảm xúc trong chat box cực cool và cute ^^~
+ Và còn nhiều nua~...
=> Chúc các bạn 1 ngày vui vẻ khi tham gia forum thegioiao!!!
---Admin---
Welcome to the virtual world community
=» Chào mừng bạn đến với diễn đàn Teen9x!
- Forum Teen9x tự hào là:
+ Tự do spam` kể cả admin online và vắng nhà ^^
+ Nhiều cảm xúc trong chat box cực cool và cute ^^~
+ Và còn nhiều nua~...
=> Chúc các bạn 1 ngày vui vẻ khi tham gia forum thegioiao!!!
---Admin---

Welcome to the virtual world community


 
Trang ChínhTrang Chính  Tìm kiếmTìm kiếm  Latest imagesLatest images  Đăng kýĐăng ký  Đăng NhậpĐăng Nhập  
--- Chào mừng các bạn đến với Forum teen9x---Forum đang trong quá xây dựng vì thế nên bị 1 số lỗi mong các bạn thông cảm và góp ý---
Top posters
470 Số bài - 44%
209 Số bài - 20%
170 Số bài - 16%
47 Số bài - 4%
41 Số bài - 4%
34 Số bài - 3%
29 Số bài - 3%
26 Số bài - 2%
23 Số bài - 2%
15 Số bài - 1%
Quản Lý
Admin
Smod
Smod
Lớp trưởng
Mod
Mod
Mod
Bài gửiThời gianNgười gửi
Statistics
Diễn Đàn hiện có 141 thành viên
Chúng ta cùng chào mừng thành viên mới đăng ký: lamdaicd3

Tổng số bài viết đã gửi vào diễn đàn là 1123 in 540 subjects

 

 Ý NGHĨA PHẬT ĐẢN

Go down 
Tác giảThông điệp
Admin
Siêu Nhân
Admin


Admin
Virgo Tổng số bài gửi : 470
Tiền Tiền : 1265
Birthday 09/09/1993
Join date : 21/05/2010
Age : 30
Đến từ : Việt Nam

Ý NGHĨA PHẬT ĐẢN Empty
11072011
Bài gửiÝ NGHĨA PHẬT ĐẢN

Ý NGHĨA PHẬT
ĐẢN




Chúng
ta kỷ niệm đại lễ Phật Đản, tức là chúng ta làm lễ kỷ niệm ngày ra đời
của Đấng Thích Ca Mâu Ni, Đức từ phụ của chúng ta. Ngày ra đời của Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni ở trong cõi Diêm Phù Đề này có những ý nghĩa trọng
đại và sâu xa như sau:


Ý NGHĨA PHẬT ĐẢN DieuPhapAm__full_29581




Ý nghĩa thứ nhất:

Đức
Phật ra đời là để khơi mở tuệ giác cho hết thảy chúng sinh: - Tất cả
chúng sinh đều có Phật tánh, tất cả chúng sinh đều có trí tuệ, nhưng trí
tuệ đã bị chôn vùi bởi hàng hàng, lớp lớp vô minh. Do đó, sự xuất hiện
Đức Phật trong cõi đời này là để khơi mở trí tuệ cho chúng ta, cho hết
thảy chúng sinh, phá trừ tất cả màn hắc ám vô minh đó, để cho hết thảy
chúng ta nhận ra được Phật tính ở nơi chúng ta, nhận ra được trí tuệ ở
nơi mỗi chúng ta. Tất cả chúng ta đều là dễ thương, hết thảy chúng sinh
đều là dễ thương. Nhưng mà, chúng ta có thể làm cho chúng ta xấu đi, mọi
người có thể làm cho chính họ xấu đi do tâm ích kỷ, tâm hờn giận. Tâm
ích kỷ, tâm hờn giận làm cho chính chúng ta xấu đi, làm cho chúng ta
không còn dễ thương nữa. Tâm ích kỷ, tâm hờn giận làm cho hết thảy chúng
sinh không còn là chúng sinh dễ thương nữa.

Do đó, sự ra đời của Đức Phật là khơi dậy tính dễ thương cho
chúng ta, khơi dậy tính dễ thương cho tất cả chúng sanh, mà trong thuật
ngữ Phật giáo, gọi sự ra đời của Đức Phật với chức năng là khai Phật tri
kiến.

Ý
nghĩa thứ hai:


Đức Phật ra đời là để
chỉ bày cho chúng ta một con đường hạnh phúc. Đức Phật ra đời là chỉ
bày cho chúng ta một con đường an lạc và nhận diện được đâu là con đường
hạnh phúc, đâu là con đường khổ đau, đâu là giá trị cao quý, đâu là
không có giá trị ở trong cuộc sống của chúng ta. Đức Phật đã chỉ cho
chúng ta thấy rằng, một đời sống có thể trở thành cao quý khi lời nói,
hành động, việc làm của họ được phát xuất từ một tâm hồn cao quý. Đức
Phật đã chỉ bày cho chúng ta cũng như tất cả chúng sinh thấy rõ rằng,
lời nói tầm thường, hành động tầm thường, việc làm tầm thường có gốc rễ
từ nơi một tâm hồn tầm thường.

Tâm hồn tầm
thường là tâm hồn gì? Là tâm hồn ích kỷ, đầy dẫy tham lam, đầy dẫy sân
si, đầy dẫy cố chấp, đầy dẫy kiêu ngạo. Lời nói nào phát xuất từ tâm hồn
kiêu ngạo, từ tâm hồn ích kỷ, hẹp hòi... lẽ đương nhiên lời nói đó có
khả năng tàn hoại hết thảy hạnh phúc, an lạc của chúng ta, có khả năng
tàn phá hết đời sống cao quý của chúng ta. Muốn bảo toàn hạnh phúc, muốn
bảo toàn an lạc, Đức Phật đã chỉ bày cho chúng ta rất rõ là phải nuôi
dưỡng tâm hồn từ, bi, hỷ, xả. Chúng ta muốn hạnh phúc, an lạc mà không
biết nuôi dưỡng tâm hồn từ, bi, hỷ, xả thì hạnh phúc, an lạc không thể
nào có được. Chúng ta muốn sống một đời sống cao thượng mà không biết
nuôi dưỡng và phát triển tâm hồn từ, bi, hỷ, xả thì chúng ta không thể
nào có đời sống cao thượng được.

Điều đó,
Đức Phật đã chỉ bày cho chúng ta cách đây hơn hai mươi lăm thế kỷ. Và
hai mươi lăm thế kỷ như vậy, những người nghe lời Đức Phật dạy, họ hành
trì, họ thực tập và chính những người đó đã có hạnh phúc, an lạc, không
những hạnh phúc, an lạc ở đời sau mà hạnh phúc, an lạc ngay trong đời
này. Bởi vậy, trong Kinh nói rằng, Đức Phật ra đời là để “Thị Phật Tri
Kiến” cho hết thảy chúng sinh. Thị Phật Tri Kiến là chỉ rõ bản chất giác
ngộ cho hết thảy chúng sinh. Khi mà chúng sinh nhận ra, thấy rõ bản
chất giác ngộ đó rồi, thì bắt đầu xây dựng đời sống hạnh phúc, an lạc
cho mình và cho hết thảy mọi người.

Ý nghĩa thứ ba:

Đức Phật ra đời khiến cho chúng sinh, dạy cho chúng sinh thành
tựu được giác ngộ ngay ở trong đời sống của chính mình. Giác ngộ là giác
ngộ ngay trong đời sống của chính mình, ngoài đời sống của chính mình
ra không có đời sống giác ngộ nào để cho chúng ta đi tìm kiếm. Chúng ta
có thể tìm kiếm là tìm kiếm giác ngộ ngay ở thân và tâm của chúng ta.
Chúng ta có thể đi tìm giác ngộ ngay trong đời sống của chúng ta, chúng
ta không thể vứt bỏ cách đi, cách đứng, cách nằm, cách ngồi, cách tiếp
xúc giao tiếp hằng ngày của chúng ta mà có sự giác ngộ. Do đó, Đức Phật
đã chỉ rõ cho chúng ta rằng, đời sống của chúng ta, dù một kẻ tầm thường
đến mức nào đi nữa cũng có khả năng giác ngộ. Một người đau khổ tột
cùng cũng có thể vươn mình đi đến đời sống hạnh phúc, an lạc. Dù một kẻ
rất tầm thường cũng có thể vươn mình đi đến đời sống thánh thiện, cao
thượng.

Điều đó, Đức Phật đã dạy cho chúng
ta, cho hết thảy chúng sinh hơn hai mươi lăm thế kỷ. Trong lịch sử, cũng
như trong đời sống thực tế, chúng ta đã thấy bao nhiêu kẻ trong đời
sống tầm thường, họ không gặp Phật pháp, họ không nghe được lời giáo
huấn cao quý của những Bậc phạm hạnh, nhưng khi họ gặp được thì họ có cơ
duyên trở thành người cao quý. Bao nhiêu kẻ bất hiếu với cha, bất hiếu
với mẹ, nhưng khi gặp thầy hiền, bạn tốt, sống trong một khung cảnh dễ
thương, họ trở thành một con người hiếu kính, một con người thuần thiện.
Điều đó đã chứng tỏ rằng, chúng ta có thể giác ngộ được, nhận ra được
cái tính chất cao thượng của chúng ta ngay trong đời sống của chúng ta.

Ngày xưa, khi Vua A Dục chưa gặp Phật pháp là một vị Vua hết
sức tàn ác, tàn ác đến nỗi giết cha, giết chín mươi chín người anh để
đoạt ngôi. Thế mà khi A Dục gặp được một vị Thánh tăng giáo hóa, thì bao
nhiêu điều xấu ác của ông đã trở thành con người hoàn thiện. Nói như
vậy để cho tất cả chúng ta thấy rằng, cái ác, cái xấu ở giữa đời không
đâu là không có và không lúc nào là không có. Vậy, chúng ta không sợ
rằng chúng ta xấu, chúng ta không sợ rằng chúng ta ác, mà chỉ sợ rằng,
chúng ta không nhận ra điều ác để tránh, không nhận ra được điều xấu để
chúng ta từ bỏ. Chúng ta chỉ sợ rằng, chúng ta bị vô minh ám chướng,
nhận thức sai lầm, để rồi bị đầu độc mà không nhận ra được giá trị cao
quý trong đời sống của chúng ta, để chúng ta vươn mình đi tới cái cao
quý, tốt đẹp.

Ngày xưa, có một vị Tổ dạy
rằng:

“Bất úy tham sân khởi

Duy khủng tự giác trì”

Nghĩa là:

“Không sợ hãi tham sân khởi dậy,


chỉ sợ mình giác ngộ chậm”.

Nếu mình hiểu
được đạo, giác ngộ được đạo, thì bao nhiêu xấu xa, bao nhiêu cái tầm
thường ở trong đời sống cuả mình cũng được chuyển hóa thành cái cao
thượng, có ý nghĩa. Bởi vậy, mà trong Kinh diễn tả rằng, Đức Phật ra đời
với ý nghĩa là “Ngộ Phật Tri Kiến” cho hết thảy chúng sinh, nghĩa là
làm cho hết thảy chúng sinh giác ngộ được những gì mà Đức Phật đã giác
ngộ, hiểu rõ bản thân mình đúng như những gì mà tuệ giác đã nhận ra, chứ
không phải hiểu bản thân mình bằng vô minh ái nghiệp.

Ý nghĩa thứ tư:

Đức Phật ra đời dạy dỗ, giáo hóa, dìu dắt, hướng dẫn khiến cho
chúng ta và hết thảy chúng sinh đều sống cuộc đời như Đức Phật đã sống.
Nghĩa là, Đức Phật đã sống như thế nào, Đức Phật biết như thế nào thì
Ngài sống như thế đó, Ngài nói như thế nào, thì Ngài làm như thế đó.
Ngài làm như thế nào, thì Ngài nói như thế đó. Ngài biết rằng tham là
nguy hiểm, tham là mất nhân cách, tham là làm cho mình nghèo đi, Ngài
biết như vậy cho nên ngài không tham. Còn ai thấy tham làm cho mình giàu
, làm cho mình hạnh phúc thì người đó cứ tham. Nhưng càng tham lam thì
lại càng đau khổ, càng tham thì lại càng mất nhân cách. Đức Phật nói,
càng tham thì lại càng làm cho mình tầm thường, càng tham thì làm cho
mình càng nhỏ nhoi; càng tham thì lại càng làm cho cha con xa nhau, càng
tham thì lại càng làm cho vợ chồng xa nhau, anh em xa nhau, bạn bè xa
nhau.

Đức Phật đã nói điều đó hơn hai mươi
lăm thế kỷ và những kẻ trí ở trong đời, họ đã đón nhận nó và đã sống.
Những người nào sống trong đời sống với tâm ly tham thì người đó đầy đủ
nhân cách, người đó thật sự hạnh phúc. Người đó sống trong gia đình họ
hạnh phúc, người đó đi giữa họ hàng họ hạnh phúc, họ đi ra giữa xã hội
họ hạnh phúc, họ đem được nhiều lợi ích cho bản thân, cho gia đình, cho
xã hội và người đó không những hạnh phúc trong đời này , mà đời sau họ
cũng hạnh phúc. Bởi vậy, Như Lai nói những gì Như Lai biết, Như lai đã
làm, Như lai đã chứng nghiệm, Như Lai đã thấy rõ, Như Lai đã sống.

Như vậy, Đức Phật ra đời với ý nghĩa thứ tư là những gì Ngài
nói thì Ngài đã làm và những gì Ngài đã làm Ngài mới nói. Còn tất cả
chúng ta chưa làm mà đã nói, chưa làm được việc nào tốt đẹp cả mà khoa
trương, lắm lời về sự tốt đẹp. Tất cả chúng ta chỉ nói lên những lời tốt
đẹp, mà không làm những điều tốt đẹp. Do đó, cái xấu, cái khổ, cái thất
vọng vẫn luôn luôn theo đuổi chúng ta như bóng với hình. Với ý nghĩa
thứ tư này, trong Kinh diễn tả mục đích của Phật ra đời là “Nhập Phật
Tri Kiến” cho hết thảy chúng sinh. Nghĩa là, Đức Phật bước đi là bước đi
bằng tuệ giác. Ngài đứng là cách đứng của tuệ giác. Ngài nằm là cách
nằm của tuệ giác. Ngài ngồi là cách ngồi của tuệ giác. Ngài nhìn là cách
nhìn của tuệ giác. Ngài nghe là cách nghe của tuệ giác. Ngài ngửi là
cách ngửi của tuệ giác. Ngài thở là cách thở của tuệ giác. Bởi vì, tất
cả những cái đi, đứng, nằm, ngồi, nói, cười, tiếp xúc bằng năng lượng
tuệ giác đó, nên trong đời sống của Đức Phật không còn mảy may sai lầm.

Còn chúng ta đi, đứng, nằm, ngồi bằng vọng niệm. Chúng ta nói,
nhìn, nghe, ngửi, ăn bằng điên đảo tưởng. Chính cái điên đảo tưởng đó
thúc đẩy chúng ta đi vào con đường khổ đau, con đường bất ổn. Bởi vậy,
suốt hơn hai mươi lăm thế kỷ, bao nhiêu bậc Thánh trí ở trong đời sau
khi nghe những lời Phật dạy, đem những lời Phật dạy đó vào trong đời
sống của mình để thực tập, để sống và bao nhiêu bậc Thánh trí ở trong
đời đã có hạnh phúc, đã có an lạc.

Vua Trần
Nhân Tông là một vị Vua anh minh của Việt Nam, đã cảm nhận được Phật
pháp rất sâu xa. Cho nên, Vua đã phát biểu trước triều đình của nhân dân
Việt Nam lúc bấy giờ như thế này: “Cảm Đức từ bi muôn kiếp nguyện cho
thân cận!” Sau khi Vua Trần Nhân Tông học Phật, tu Phật, thấy được cái
cao quý của Phật, muốn mình trở thành như một vị Phật. Do đó, Vua đã
chọn cho mình một Pháp hiệu là: Điều Ngự Giác Hoàng. Giác Hoàng tức là
nhà Vua giác ngộ. Điều Ngự là một trong những phẩm tính của Phật. Phẩm
tính đó có khả năng thuần hóa hết thảy chúng sinh. Vua Trần Nhân Tông
chọn cho mình phẩm hiệu là Điều Ngự Giác hoàng. Nghĩa là, nhà Vua giác
ngộ thuần hóa nhân dân Việt nam trong tinh thần Phật giáo, trong tinh
thần của đạo lý giác ngộ.

Tại sao Vua Trần
Nhân Tông phải chọn Phật giáo làm một nền tảng giáo dục dân chúng sống
đúng tinh thần Phật giáo. Vì, chỉ có tinh thần Phật giáo là tinh thần
bao dung, tinh thần hỷ xả. Chỉ có xây dựng theo tinh thần Phật giáo mới
làm cho gia đình bình ổn, làm cho tâm hồn của mỗi con người bình ổn. Từ
tâm hồn của mỗi con người được bình ổn sẽ đưa đến gia đình bình ổn, và
mỗi gia đình bình ổn sẽ đưa đến họ hàng bình ổn. Mỗi gia đình bình ổn sẽ
đưa đến xóm làng bình ổn. Xóm làng bình ổn sẽ đưa đến từng phường, xã
bình ổn. Từng phường xã bình ổn sẽ đưa đến quận huyện bình ổn. Nhiều
quận, huyện bình ổn sẽ đưa đến phố thị bình ổn, tỉnh thị bình ổn. Nhiều
tỉnh thị bình ổn sẽ đưa đến quốc gia bình ổn. Nhiều quốc gia bình ổn sẽ
đưa đến thế giới bình ổn. Mỗi thế giới bình ổn sẽ đưa đến toàn thể vũ
trụ sống trong một quy luật trật tự, hạnh phúc.

Như vậy, một trật tự lớn lao có thể bình ổn được khi tâm của
mỗi chúng sinh bình ổn, nghĩa là phải khơi mở cho được Phật tính nơi họ.
Mỗi người phải biết trở về sống với cái dễ thương nơi mình, cái dễ
thương nơi mình chính là Phật tính, cái quý giá nhất nơi mình chính là
Phật tính. Chúng ta trở về lại với cái cao đẹp nhất nơi chúng ta là Phật
tính.

Phật tính nằm ở đâu? Phật tính nằm
trong tâm hồn của chúng ta. Chúng ta thấy rằng, Đức Phật ra đời để khơi
mở, chỉ cho chúng ta rằng trong tâm chúng ta có Phật tính. Ngài chỉ
trong tâm quý vị có Phật tính, quý vị đã thấy chưa? Ai thấy rồi thì ngộ,
ai chưa thấy thì mê. Quý vị thấy trong tâm quý vị có Phật tính thì quý
vị ngộ, quý vị sẽ đi trên con đường sáng. Quý vị không thấy trong tâm
quý vị có Phật tính thì quý vị mê. Mê thì quý vị đi vào con đường tối
tăm, mù mịt và dù có hai mắt mà vẫn tối thui, có hai chân mà vẫn què, có
hai tay mà vẫn không nắm được gì, có mũi mà không ngửi được, có tai mà
vẫn không nghe được. Nhưng, nếu ta thấy trong tâm ta có Phật tính, ngộ
được Phật tính đó thì ta có cơ hội đi lên, có cơ hội đi tới với hạnh
phúc, an lạc, với giải thoát, với chân trời mở rộng.

Ý nghĩa thứ năm:

Ngộ rồi chưa đủ, phải thể nhập với Phật tính đó và biểu hiện
Phật tính đó trong đời sống hằng ngày của chúng ta. Như vậy ngộ rồi thì
phải nhập, mà nhập rồi thì phải xuất, nhập mà không xuất thì nghĩa nhập
đó không thành. Bởi vì, nhập mà không xuất thì bí, cho nên nhập là phải
xuất.

Trong vô lượng kiếp về trước, Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng hành Bồ Tát đạo. Từ nơi Đức Phật Oai Âm
Vương cách đây hàng tỉ tỉ kiếp, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng học với
Đức Phật Oai Âm Vương. Đức Phật Oai Âm Vương đã từng khai, thị, ngộ,
nhập, tri, kiến cho Phật Thích Ca Mâu Ni. Và sau khi Đức Phật Thích Ca
Mâu Ni nhập được Phật tri kiến rồi, Ngài bắt đầu xuất ở nơi thế giới Ta
Bà này. Xuất ở nơi thế giới Ta Bà này, Ngài vui với cái vui của chúng
ta, buồn với cái buồn của chúng ta, Ngài nằm gai nếm mật với chúng ta.
Khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện trong mười phương thế giới, xuất
hiện trong cõi Ta Bà này là Ngài bắt đầu đi con đường của Thánh đạo, con
đường Bồ Tát để đưa mình và hết thảy chúng sinh đi về với con đường
giác ngộ.

Tiền thân của Phật Thích Ca Mâu
Ni là ai? Tiền thân của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mà trong Kinh Pháp Hoa
đã ghi lại chính là Bồ Tát Thường Bất Khinh. Bồ tát Thường Bất Khinh là
một vị Bồ Tát không dám khinh ai cả và là một vị Bồ tát chuyên thực hành
hạnh không dám khinh ai cả. Vì sao bồ Tát Thường Bất Khinh là tiền thân
của Phật Thích Ca Mâu Ni và Ngài không dám khinh ai cả? Bởi vì, Ngài
thấy rõ chúng sinh dù tầm thường đến mức nào đi nữa, họ cũng có cái cao
quý của họ. Sở dĩ họ tầm thường là vì họ không gặp được thầy, không gặp
được bạn, không gặp được người cha, người mẹ, người anh, người chị dễ
thương. Do đó, cái tầm thường mới lem ố ra trong đời sống của họ. Giá
như những chúng sinh tầm thường đó mà gặp được thầy hiền, bạn tốt, gặp
người cha dễ thương, người mẹ dễ thương, người anh, người chị dễ thương,
thì nhất định sớm muộn gì họ cũng dễ thương thôi. Chúng sinh, tầm
thường như vậy là vì họ sinh ra trong xã hội gặp vị vua, quan không dễ
thương, cho nên, lâu ngày cái không dễ thương của ông vua, ông quan làm
lấm lem họ. Nếu họ có phước gặp được vị vua dễ thương, vị quan dễ
thương, vị minh quân dễ thương, vị minh chúa... thì người dân đó lâu
ngày cũng trở thành hiền thiện, quý báu.

Bồ
tát Thường Bất Khinh thấy rõ như thế và yêu đời như thế. Cho nên, Bồ
tát Thường Bất Khinh thấy một người tầm thường, Ngài cũng không thất
vọng. Ngài thấy một người tầm thường Ngài cũng đứng ở xa kính lễ và Ngài
nói rằng: “ Tôi không dám khinh các Người, tôi không dám khinh các
Ngài, các Ngài sẽ đi trên con đường Thánh đạo, các Ngài sẽ đi trên con
đường Bồ Tát đạo, các Ngài tương lai sẽ làm Phật”. Tôi không dám khinh
các Ngài, lời nói cao đẹp đó dù bị đôi đá, dù bị nguyền rủa... Bồ Tát
Thường Bất Khinh vẫn không hề nổi cơn giận dữ, vẫn không hề trễ nải nói
lên những lời tốt đẹp đó. Quý vị có biết, Bồ Tát Thường Bất Khinh ở
trong Kinh Pháp Hoa là ai không? Là tiền thân của Đức Phật Thích Ca Mâu
Ni. Ngài thể nhập được Phật tính rồi thì bây giờ Ngài phải xuất Phật
tính ra, phải thể hiện Phật tính ra cho mọi người. Mà thể hiện Phật tính
đó là tính không giận dữ. Đứng trước một nghịch cảnh, mình đem lời chúc
tụng cho người, thế mà người không nhận lại còn thóa mạ, còn vác đá ném
mình nữa, nhưng Ngài vẫn không giận dữ. Ngài vẫn thương người vác đá
ném mình một cách chân tình: “ Tôi không dám khinh Người đâu, Người chưa
biết thì vác đá ném tôi như vậy đó, nhưng mai mốt Người biết rồi, thì
Người hết ném tôi thôi. Tôi không dám khinh quý vị đâu, tôi không dám
giận quý vị đâu. Mặc dầu hôm nay, tôi biết quý vị nói xấu tôi đó, tìm
cách hại tôi đó, tìm cách nhục mạ tôi đó, nhưng tôi không dám khinh quý
vị đâu, tôi không giận quý vị đâu, tôi rất thương quý vị. Bởi vì, quý vị
chưa hiểu tôi thì quý vị nguyền rủa tôi là phải; quý vị chưa nhận ra
tôi thì quý vị nguyền rủa tôi là phải, nhưng, mai mốt quý vị nhận ra
được sự thật rồi, khi đó không ai bảo quý vị phải thương tôi, mà quý vị
vẫn thương như thường”.

Công trình tu học
đó là công trình mà Đức phật Thích Ca Mâu Ni đã thực hành trải dài hàng
thế kỷ. Bây giờ đây chúng ta làm lễ kỷ niệm Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ra
đời, có phải chúng ta làm lễ kỷ niệm suông không? Có phải chúng ta đến
nơi lễ đài để lạy Phật, nhưng xong rồi chứng nào vẫn giữ tật nấy hay
không? Nếu chúng ta đến nơi một lễ đài, để rồi chen nhau lạy, sau đó về
nhà và chứng nào vẫn giữ tật nấy, xem người như rơm rác, thì thiết lập
lễ đài để làm gì? Chúng ta phải thiết lập lễ đài ngay chính trong tâm
hồn chúng ta. Chúng ta phải xây dựng cho được lễ đài ngay trong đời sống
của chúng ta, cái lễ đài đó mới thật sự quan trọng. Chúng ta đừng khờ
khạo góp tiền hàng triệu bạc, hàng chục triệu bạc để rồi làm công việc
dã tràng xe cát biển đông. Chúng ta đừng bỏ ra cả một đời người để làm
một công việc như vậy. Chúng ta phải biến lễ đài thành lễ đài ngay chính
trong tâm hồn chúng ta và lễ đài khi đã được thiết trí trong tâm hồn
của chúng ta, thì lẽ đương nhiên chúng ta đi đâu, ở đâu, lúc nào, ngủ,
thức đều có Phật cả.

Thưa quý vị! Tại sao
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, khi thực hành Bồ Tát đạo, Ngài làm được những
việc đó? Bởi vì, Ngài ngộ được tri kiến Phật, Ngài nhập được tri kiến
Phật. Và khi ngộ, nhập Phật tri kiến rồi, Ngài thương hết thảy chúng
sinh. Cho nên, Ngài mới xuất hiện trong cõi Diêm Phù Đề này với chúng
ta. Nhưng tại sao Ngài không xuất hiện trên loài hoa Sứ mà lại chọn hoa
Sen để xuất hiện?

Ngài xuất hiện trên hoa
Sen có ý nghĩa gì? Nghĩa là khi một Đấng giác ngộ đã khơi mở được Phật
tính nơi chính mình, đã thấy rõ được Phật tính nơi chính mình, đã giác
ngộ được Phật tính nơi chính mình và đã thể nhập trọn vẹn được Phật tính
nơi chính mình qua đời sống hằng ngày, thì vị đó sống giữa trần thế mà
không bị ô nhiễm. Vị đó đi vào danh mà không bị danh làm cho ô nhiễm, đi
vào trong lợi mà không bị lợi làm cho ô nhiễm. Vị đó đi vào trong danh
mà không bị danh trói buộc, đi vào trong lợi mà không bị lợi trói buộc,
đi vào trong cái mùi vị mà không bị cái ăn trói buộc, mặc áo mà không bị
vải vóc, gấm lụa trói buộc, uống nước mà không bị rượu, bia, bò húc,
trói buộc. Tất cả những cái ô nhiễm, không bị trói buộc đó là biểu tượng
cho hoa Sen. Hoa Sen ở trong bùn mà không bị ô nhiễm. Bởi vậy, Đức Phật
xuất hiện trên cõi đời, Ngài đi trên bảy hoa Sen là vậy đó. Hoa Sen là
vô nhiễm, là không còn mắc kẹt bởi nước, bởi bùn, mặc dù hoa Sen từ bùn,
từ nước mà lớn lên và trưởng thành.

Khi
một Đấng tuệ giác mà thành tựu Phật tri kiến rồi, Phật tri kiến đó từ
chúng sinh mà ra, nhưng khi đã thành tựu Phật tri kiến thì không còn mắc
kẹt cái tầm thường của chúng sinh nữa. Bởi vậy, Đức Thích Ca Mâu Ni từ
cung trời Đâu Suất đã hóa thân thị hiện trong cõi Diêm Phù Đề này và nằm
trong bụng Ma Ya phu nhân. Ngài không phải nằm trong bụng mẹ như những
thai nhi khác, Ngài nằm nơi đó vì đại nguyện, đại trí, đại bi. Còn chúng
ta vì vô minh ái nghiệp, vì u mê ám chướng mà vào nằm trong bụng mẹ.
Bởi vậy trong Kinh Hoa Nghiêm dạy rằng: “Khi Bồ Tát Tất Đạt Đa nằm trong
thai tạng hoàng hậu Ma Ya, Ngài đã thuyết pháp cho hàng Bồ Tát khắp cả
mười phương thế giới”.

Chúng ta đừng cho
rằng đây là một ảo tưởng, mà đây là một tuệ giác, đây là một điều khoa
học có thể chứng minh được. Đức Phật khi nằm trong thai tạng hoàng hậu
Ma Ya, Ngài thuyết pháp bằng năng lượng của tuệ giác, thuyết pháp bằng
ánh sáng của tuệ giác. Từ trong thai tạng mà tỏa ra vô số ánh sáng, giao
tiếp với vô số Bồ Tát khắp cả mười phương. Và Bồ tát khắp cả mười
phương vẫn ngồi ở thế giới của mình mà tiếp nhận ánh sáng tuệ giác đó mà
nói chuyện với Bồ Tát Tất Đạt Đa, tức là hóa thân của Đức Phật Thích Ca
Mâu Ni. Điều này, trong vòng khoảng ba trăm năm nữa khoa học sẽ phát
hiện được. Một thai phụ ở bên Mỹ, bằng tia laser ta có thể ngồi ở Việt
Nam mà nhìn được thai nhi. Bây giờ khoa học mới tìm tòi, phát hiện được
tính nam hay nữ của thai nhi từ 5 đến 6 tháng bằng siêu âm. Cho nên,
những gì Phật nói, những gì Đức Phật dạy là những gì mới tinh của khoa
học và khoa học là một học trò ấu trĩ của Phật giáo. Tôi nói khoa học là
học trò ấu trĩ, ngây ngô của Phật giáo, cho nên, quý vị Phật tử đừng có
ảo tưởng là duy khoa học! Có đôi người mù quáng, tầm thường, thấy khoa
học thành công một vài lãnh vực thì đã hô hào duy khoa hoc, nhưng cái
duy khoa học chỉ là cái ấu trĩ của Phật giáo mà thôi!

Bởi vậy, Đức Phật xuất hiện trong cõi đời này, Ngài đi trên
bảy hoa Sen để chứng tỏ rằng, Ngài xuất hiện trên cõi đời này với tâm vô
nhiễm, với trí vô nhiễm, với tuệ vô nhiễm. Ngài thương yêu mà vô nhiễm,
còn chúng ta thương là nhiễm, chúng ta không thương thì thôi, còn
thương là nhiễm, thương là kẹt. Bồ Tát thương không kẹt, Phật thương
không kẹt, cũng như hoa Sen sinh ra từ bùn mà không kẹt bùn, nó sinh ra
từ nước mà nó không kẹt nước, nó sinh ra từ sự tanh hôi mà nó không kẹt
bởi sự tanh hôi đó. Vì ý nghĩa này, mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Ngài
xuất hiện trên hoa sen, Ngài ngồi trên hoa Sen, Ngài đứng trên hoa Sen.

Ý nghĩa thứ sáu:

Tại sao Đức Phật xuất hiện trên cõi đời này, Ngài đi bảy bước
trên hoa Sen? Một đặc điểm khác nữa của hoa Sen là Hoa nở Sen hiện.
Nghĩa là, Đức Phật, dạy giáo pháp của Ngài, nếu chúng ta quyết tâm hành
trì, thì sẽ có an lạc ngay, đó là “Hoa nở Sen hiện”! Không tu thì thôi,
tu là tức khắc có an lạc ngay! Cho nên, những ai tu tập mà không có an
lạc thì phải coi chừng! Phải tu lại! Tôi tu một giờ là tôi có hạnh phúc
một giờ, không có lý do gì mà tu một giờ mà không có hạnh phúc, an lạc
một giờ. Nếu tu một giờ mà khổ đau thì đừng tu, cho nên, tôi tu một giờ
là tôi có hạnh phúc, an lạc một giờ, đó là hoa nở Sen hiện. Tu một giờ
là có hạnh phúc, an lạc một giờ. Tu hai giờ là có hạnh phúc, an lạc hai
giờ. Tu mười năm là có hạnh phúc, an lạc mười năm. Tu một trăm năm là có
hạnh phúc, an lạc một trăm năm. Không có lý do gì tu mà khổ cả! Nhiều
người Phật tử thường đi chùa, nhưng có những lời nói thiếu ý thức. Có
người con muốn xuất gia nhưng cha mẹ không đồng ý, vì cho rằng, đi tu
phải thức khuya, dậy sớm. Vậy thì ai thức khuya dậy sớm để bây giờ dạy
đạo, giảng đạo cho mình? Quý vị nhìn lại về cách hiểu đạo, cách tu tập
của mình! Chỉ có người không biết tu tập mới khổ mà thôi. Tôi nhắc lại
với quý vị rằng, chỉ có người không tu tập mới khổ, còn chúng ta tu tập
một ngày là hạnh phúc một ngày, tu hai ngày là hạnh phúc hai ngày, tu cả
đời là hạnh phúc cả đời, tu hằng kiếp là hạnh phúc hằng kiếp.Tu là có
hạnh phúc, đó là hoa nở Sen hiện.

Vì vậy,
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Ngài vui với cái vui rất trọn vẹn. Do vậy mà
các nghệ sĩ đã điêu khắc tượng của Ngài chỉ cười mỉm thôi, cười nửa
miệng thôi! Chỉ có cười mỉm là cái cười trọn vẹn. Tôi nhắc lại chỉ có
cười mỉm mới là cái cười trọn vẹn. Cười mỉm là cái cười của trung đạo,
còn cái cười toe toét như cái cười đi dự tiệc cưới là cái cười mang tính
chất thất vọng, khổ đau sau đó! Và cũng không phải cái mặt méo mó như
đi thăm đám ma! Đám cưới và đám ma là hai thái cực của cuộc sống. Chỉ có
cười mỉm mới là cái cười độc đáo của cuộc sống. Chỉ khi nào có tuệ giác
mới cười mỉm được. Thấy tiệc cưới cũng cười mỉm, thấy đám ma cũng cười
mỉm, người ta khen mình cũng cười mỉm, người ta chê mình cũng cười mỉm.
Như vậy cái cười mỉm là cái cười độc đáo nhất mà chỉ có Đức Phật mới
cười nổi vậy! Vì sao chỉ có Đức Phật mới cười mỉm nổi? Vì, chỉ có Đức
Phật mới thể nhập được tuệ giác trong đời sống của chính Ngài.

Ý nghĩa thứ bảy:

Một đặc điểm nữa
là, Đức Phật xuất hiện trên cõi đời này, trên hoa Sen là bởi vì, hoa Sen
còn có một đặc điểm nữa là “hoa rụng Sen thành, Hoa nở thì Sen hiện”.
Sự xuất hiện của Đức Phật trên hoa Sen để nói cho chúng ta thấy rằng,
cái chết là bắt đầu của cái sống, cái sống đây là bắt đầu của cái chết.
Sự xuất hiện cũng có nghĩa là bắt đầu của một sự ẩn khuất. Ngài ẩn khuất
ở nơi thế giới Liên Hoa Đài Tạng thì Ngài có mặt ngay nơi thế giới Ta
Bà này. Rụng là rụng từ thế giới Liên Hoa Đài Tạng, mà thành là thành
nơi thế giới Ta Bà. Cho nên, đối với cái sống, cái chết ở trong đạo Phật
không còn là cái gì nữa để chúng ta sợ hãi, lo âu. Chúng ta vắng mặt ở
nơi này thì ta có mặt ở nơi kia, chúng ta vắng mặt ở nơi gia đình chúng
ta thì chúng ta có mặt ở nơi chùa Phước Duyên, chúng ta vắng mặt ở chùa
Phước Duyên thì chúng ta có mặt ở nơi gia đình chúng ta.

“Hoa rụng Sen thành”, Bồ Tát Tất Đạt Đa vắng mặt ở thế giới
Liên Hoa Đài Tạng, thì Ngài có mặt ở nơi thế giới Ta Bà này. Đức Phật
vắng mặt ở nơi cõi Ta Bà này, thì Ngài có mặt ở thế giới Liên Hoa Đài
Tạng, Đức Phật xuất hiện trên cõi đời này, Ngài không đi trên hoa Sứ,
Ngài không đi trên hoa Cúc. Mặc dù, hoa Cúc được xem là biểu tượng cho
những nhà ẩn sĩ, đạo sĩ. Nhưng Đức Phật không xuất hiện trên hoa Cúc, mà
Ngài chỉ xuất hiện trên hoa Sen thôi. Bởi vì, hoa Cúc không phải là vô
nhiễm, hoa Cúc không phải là “hoa nở Cúc hiện, hoa rụng Cúc thành”, mà
chỉ có hoa Sen mới có những đặc điểm như thế. Cho nên, Đức Phật mới xuất
hiện trên hoa Sen và Ngài đi bảy bước.

Tại
sao Ngài đi bảy bước mà không đi tám bước hay một bước, mười bước? Bởi
vì, sự cấu hợp của vũ trụ không ra ngoài con số bảy, sự có mặt của tất
cả chúng ta không ra ngoài con số bảy: địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong
đại, không đại, tâm đại, thức đại. Toàn thể vũ trụ hay sự hình thành
của chúng sinh không ra ngoài bảy yếu tố này. Sự có mặt của chúng ta là
do sự có mặt của bảy yếu tố trên. Và sự có mặt của Đức Phật Thích Ca Mâu
Ni là sự có mặt của bảy yếu tố đó. Chính từ bảy yếu tố đó, mà một vị
thể nhập được cái “tri kiến Phật” thì sẽ thành tựu được bảy yếu tố giác
ngộ, gọi là thất bồ đề phần. Bảy yếu tố: địa, thủy, hỏa, phong, không,
tâm, thức tạo nên hình hài, tâm trạng, tinh thần của mỗi chúng sinh, thì
bảy yếu tố là “thất bồ đề phần” tạo nên của Đấng Giác Ngộ. Cho nên bảy
yếu tố tạo nên chúng sinh và bảy yếu tố tạo nên Đấng Giác Ngộ. Bởi vậy,
Đức Phật xuất hiện trên cõi đời này, Ngài không đi tám bước mà Ngài đi
bảy bước thôi!

Ý nghĩa thứ tám:

Thế thì,
ngày hôm nay chúng ta làm lễ kỷ niệm Đức Phật ra đời, có phải rằng chúng
ta chỉ biết nấu vài chén chè, vài dĩa xôi đặt lên bàn Phật không? Chúng
ta có thể nấu vài dĩa xôi, vài chén chè đặt trên bàn Phật với tâm hồn
nào? Chúng ta đặt trên bàn Phật với tâm trạng một lữ khách đang thực tập
khai Phật tri kiến, thị Phật tri kiến, ngộ Phật tri kiến, nhập Phật tri
kiến thì chè, xôi đó cũng trở thành pháp lạc, cũng trở thành đề hồ.
Trái lại, chúng ta đặt xôi, chè lên bàn Phật với u mê, tham lam, ích kỷ,
hẹp hòi, tầm thường, hèn mạt, thì xôi, chè đó trở thành đất, đá.

Thưa quý vị!

Chúng ta làm lễ kỷ
niệm ngày đản sanh của Đức Phật, chúng ta phải làm thế nào đó để Đức
Phật trong chúng ta phải ra đời mỗi ngày. Chúng ta làm lễ Đức Phật đản
sanh, nghĩa là chúng ta có khả năng làm cho Đức Phật trong ta đản sanh
mỗi ngày và chúng ta làm được như thế là chúng ta rất giàu! Chứ chúng ta
không đợi 365 ngày mới đến chùa làm lễ đản Sanh, Phật tử đâu mà nghèo
nàn đến như thế, tu hành đâu mà tội nghiệp như thế! Chúng ta phải làm
như thế nào đó để Đức Phật trong chính chúng ta đản sanh mỗi ngày và mỗi
ngày chúng ta phải thấy được Phật đản sanh. Còn ai mà không có khả năng
làm cho Đức Phật của mình đản sanh hằng ngày, thì cứ đợi đi! Lo về chợ
Đông Ba mà mua bán cho gắt, tới các cơ quan mà làm việc cho gắt, rồi đợi
365 ngày đến chùa Từ Đàm mà làm lễ, đến chùa Phước Duyên mà làm lễ, đến
chùa Từ Hiếu mà làm lễ và nếu rủi ro, không gặp ngày chủ nhật, mình
phải đi thi hoặc đi chấm thi... thì coi như Đức Phật tắt ngòi, hết ra
đời luôn! Hết đản sinh luôn! Còn nếu chúng ta thông minh, chúng ta biết
làm cho Đức Phật chúng ta đản sinh mỗi ngày, thì Ma vương phải khóc, quỷ
thần phải khóc, những kẻ manh tâm phá hoại Phật giáo phải khóc, phải
giong tay đầu hàng.

Chúng ta có khả năng
làm cho Đức Phật chúng ta ra đời mỗi ngày, thì chúng ta không cần phải
xin phép ai để tổ chức đại lễ cả. Nhưng vì u mê, chúng ta không làm cho
Đức Phật trong chúng ta đản sanh mỗi ngày, nên chúng ta phải xin phép tổ
chức lễ Phật Đản. Cái u mê đó chúng ta đem mà hoằng pháp, thì pháp bị
bế tắc, chúng ta đem dạy cho đời, thì đời càng thêm đau khổ, chúng ta
càng lãnh đạo, thì đạo không có đường để đi! Cho nên, chúng tôi nói với
tất cả quý vị là Phật tử thì chúng ta phải thông minh, làm cho Phật
trong mỗi chúng ta đản sinh mỗi ngày và mỗi ngày chúng ta được đảnh lễ
Phật đản sinh của chúng ta, đó mới thật sự là người đệ tử của Phật làm
lễ kỷ niệm đản sinh một cách thông minh, một cách tài tình, một cách có
trí tuệ và là một phương tiện thiện xảo. Ta mới có khả năng đi những
bước vững chãi trên những hoa Sen, còn nếu không thì chỉ là hoa Sen vẽ
trên giấy mà thôi.

Trước khi dứt lời, cầu
nguyện Tam Bảo gia hộ cho tất cả quý vị sống một cuộc đời luôn luôn có
Phật Đản Sinh.

Thích Thái Hòa
Về Đầu Trang Go down
https://4teen9x.forumvi.com
Share this post on: reddit

Ý NGHĨA PHẬT ĐẢN :: Comments

No Comment.
 

Ý NGHĨA PHẬT ĐẢN

Về Đầu Trang 

Trang 1 trong tổng số 1 trang

 Similar topics

-
» Ý nghĩa của nghi lễ tắm Phật
» Giải nghĩa những biểu tượng trên tay cầm của PlayStation
» Pháp môn lạy Phật
» Phật giáo và thời đại
» Lời dạy của đức Phật về khổ đau và hạnh phúc

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Welcome to the virtual world community :: Chuyên Mục Phật Giáo :: SUY NGẪM-
Chuyển đến